Chè Truồi là một trong những đặc sản nổi tiếng của xứ Truồi cùng góp phần tạo nên thương hiệu " Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu " mà ở bất cứ nơi nào cũng không thể thay thế được .
Từ xa xưa, người dân quê sống dưới chân núi Ấn Lãnh, dọc hai triền sông Hưng Bình đều gọi làng Nam Phổ Cần (xã Lộc An, huyện Phú Lộc) là làng Truồi. Từ cái làng Truồi “gốc” ấy mà không biết từ bao giờ đã “Truồi hóa” núi Ấn, sông Hưng thành núi Truồi, sông Truồi và cả một vùng đất rộng lớn thành địa danh xứ Truồi hiện nay.
Qua bao năm tháng, nước vẫn còn đó những vườn chè trù phú và trở thành loại cây đặc sản của xứ Truồi vì hương vị độc đáo riêng biệt của nó.
Đối với người dân xứ Huế những ai thích uống chè xanh, khi đến chợ, họ luôn tìm mua bằng được bó chè Truồi. Khi nâng bát nước chè xanh lên môi nhấp một ngụm, người sành điệu có thể phân biệt được đâu là chè xanh làng Truồi với các làng khác trong vùng.
Cách phân biệt chè Truồi với chè của các vùng miền khác trên đất Huế không hề khó. Nếu chè ở các vùng khác thường được để nguyên cành, lá và bó lại thành những bó dài thì chè Truồi được ngắt riêng thành từng lá và bó thành bó bởi những sợi lạt tre tự nhiên. Lá chè của các nơi khác thường to, màu xanh lá cây rất đậm, bao gồm cả lá già và lá non, còn lá chè Truồi là sự chắt lọc những ngọn lá ngon nhất trên cây chè, không phải là những lá non nằm ngoài đọt của cành chè, mà là những lá già và nằm gần với thân cây. Lá chè Truồi nhỏ nhắn, chỉ bằng một nửa hay hai phần ba lá chè của các nơi, có màu xanh mạ non, lá hơi ngả vàng, dày và nhỏ ngọn.
Điều đặc biệt, cũng là chè Truồi, vẫn cách ngắt lá và bó lại thành bó y hệt nhau, nhưng tìm được bó chè ngon, nấu ra bát nước trong xanh một màu xanh trong veo, vừa đắng chát, vừa nồng nàn cũng không phải là điều dễ dàng. Cây chè được trồng ở mạch đất khác nhau sẽ mang một dáng dấp và hương vị khác nhau. Chè Truồi trồng ở vùng đồng bằng, đất ven sông, ven đầm phá, nơi thiếu ánh sáng mặt trời thì cây chè sẽ tốt tươi, lá có màu xanh đậm hơn và to. Ngược lại, những cây chè trồng ở vùng núi, đồi cao, hay những gò đống, nơi ánh nắng mặt trời thoáng đãng, cây chè sẽ còi cọc hơn, lá có màu vàng nhạt, hay màu của mạ non, ngọn nhỏ, lá thường dày và rất giòn. Chính những ngọn chè đó là ngọn chè ngon nhất và chiết ra những bát nước ngọt ngào nhất, uống vào hơi chát mà ngọt mãi nơi cổ họng, không bao giờ bị đỏ quạch, đắng chát.
Khi nấu chè Truồi không nên thêm gừng vì mùi gừng sẽ khử mất mùi thơm tự nhiên của chè xanh. Hương của bát nước chè xanh xứ Truồi tỏa ra thơm thơm, uống vào thấy chát chát ngọt ngọt, khiến những ai quen dùng cứ nhớ, thành “nghiện, ăn xong mà không có bát nước chè xanh là không chịu được”.
Ở làng Truồi, cây chè như gặp đất lành, không nơi nào sánh được, để rồi hòa quyện vào đó mà xanh lên một hình hài. Mỗi ngày, vẫn có những chuyến xe chở chè Truồi ruổi rong bao phiên chợ. Người làng Truồi đi thăm bà con xa gần thường mang theo chục bó chè làm quà. Người các nơi khác đến chơi ở làng Truồi cũng thường được chủ nhà biếu “cây nhà lá vườn” đem về.
Ngoài những loại đặc sản như dâu, mít thì chè Truồi cũng được xếp vào danh sách những loại thực phẩm tạo nên thương hiệu “nức tiếng” của vùng quê trù phú này. Đến nay bằng sự tìm tòi, nghiên cứu, anh Hoàng Viết Thắng là một người con của xứ Truồi (Lộc Điền) đã sản xuất, chế biến thành công sản phẩm chè sấy khô với thương hiệu chè Truồi Ấn Lĩnh mang lại hương vị thơm, ngon và tiện dụng cho mọi người khi sử dụng. Sản phẩm ra với thị trường, qua tìm hiểu của khách hàng đã đánh giá cao về chất lượng. Hy vọng bên cạnh những loại đặc sản của xứ Truồi, sản phẩm chè Truồi sẽ điểm tô thêm sắc màu cho vùng Truồi quê tôi./.